Đột quỵ xuất huyết não là một cấp cứu gây ra bởi tình trạng mạch m.áu não đột ngột vỡ ra, c.hảy m.áu vào bên trong nhu mô não, làm tổn thương não.
Đột quỵ xuất huyết não có tỷ lệ t.ử v.ong lên tới 40%, cao hơn đột quỵ do thiếu m.áu não, các triệu chứng cũng xuất hiện nhanh và trầm trọng hơn.
Theo nghiên cứu, đột quỵ xuất huyết não có tỷ lệ t.ử v.ong rất cao, khoảng 40%. Nếu may mắn qua khỏi, tỷ lệ tàn tật cũng không hề nhỏ, khoảng 35%. Vì vậy, cách tốt nhất là phòng ngừa loại đột quỵ nguy hiểm này.
Các nguyên nhân gây đột quỵ xuất huyết não
Có nhiều nguyên nhân gây đột quỵ xuất huyết não trong đó nguyên nhân hay gặp nhất là tăng huyết áp. Đây là nguyên nhân phổ biến, hay gặp ở người trẻ t.uổi.
Một nguyên nhân hay gặp khác là do các mạch m.áu hình thành bất thường trong não, cụ thể:
– Do vỡ túi phình động mạch não, dị dạng động – tĩnh mạch não.
– Do sử dụng chất làm giảm đông m.áu.
– Do khối u não vỡ gây c.hảy m.áu.
– Do sử dụng các chất m.a t.úy (có thể gây tăng huyết áp và dẫn đến xuất huyết),
– Do các bệnh làm m.áu khó đông…
Bất cứ ai cũng có thể bị xuất huyết não, nhưng nguy cơ xuất huyết não tăng theo t.uổi. Nam giới có nguy cơ cao hơn một chút so với nữ.
Hình ảnh đột quỵ xuất huyết não
Biểu hiện đột quỵ xuất huyết não
Các biểu hiện thường gặp là:
– Đột ngột tê hoặc yếu ở mặt, cánh tay hoặc chân (đặc biệt là ở một bên cơ thể).
– Đột nhiên nhầm lẫn, khó nói hoặc khó hiểu lời nói.
– Đột ngột khó nhìn ở một hoặc cả hai mắt.
– Đột ngột đi lại khó khăn, chóng mặt, mất thăng bằng hoặc phối hợp.
– Đột ngột đau đầu dữ dội không rõ nguyên nhân.
Đột quỵ xuất huyết não gây ra các dấu hiệu thần kinh tương tự như đột quỵ nhồi m.áu não. Mặc dù các triệu chứng buồn nôn, nôn, đau đầu, đột ngột thay đổi ý thức thường gặp hơn trong đột quỵ xuất huyết não. Các dấu hiệu có thể khác nhau phụ thuộc vào khu vực não bị tổn thương, từ đau đầu nhẹ đến suy giảm nặng nề chức năng thần kinh.
Ở bệnh nhân c.hảy m.áu nội sọ thường có các triệu chứng: đau đầu, rối loạn tâm thần, co giật, buồn nôn, nôn, tăng huyết áp rõ rệt. Do đó, khi gặp tình trạng này, người thân nên đưa bệnh nhân đi cấp cứu ngay.
Nên kiểm soát và làm hạ huyết áp xuống một mức hợp lí là bước quan trọng để phòng bệnh.
Chẩn đoán đột quỵ xuất huyết não
Nếu bệnh nhân có một số triệu chứng của đột quỵ não, bác sĩ sẽ chỉ định chụp cắt lớp vi tính (CT) sọ não là phương pháp rất tin cậy, chẩn đoán chính xác xuất huyết não, thời gian thực hiện nhanh (khoảng 5-10 phút). Ngoài ra, trên phim còn có thể phát hiện các tổn thương, bệnh lí khác trong não.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) cũng phát hiện rất chính xác xuất huyết não và các tổn thương khác. Tuy nhiên, phương pháp này chụp lâu hơn, chi phí cao hơn và chỉ nên thực hiện ở một số trường hợp cụ thể. Chụp mạch chỉ cần thiết khi bác sĩ nghi ngờ có dị dạng mạch m.áu hoặc do nguyên nhân đặc biệt khác.
Các xét nghiệm m.áu giúp xác định rối loạn hệ thống miễn dịch, viêm và các vấn đề đông m.áu có thể gây xuất huyết não.
Lời khuyên bác sĩ trong điều trị đột quỵ xuất huyết não
Đột quỵ xuất huyết não là một bệnh cấp cứu cần điều trị ngay lập tức. Xuất huyết não ít gặp hơn nhồi m.áu não (tắc mạch) nhưng thường nghiêm trọng hơn. Việc điều trị phụ thuộc vào lượng m.áu và mức độ tổn thương não.
Vì nguyên nhân phổ biến nhất của xuất huyết não liên quan đến tăng huyết áp, nên kiểm soát và làm hạ huyết áp xuống một mức hợp lí là bước quan trọng đầu tiên. Trong một số trường hợp, phẫu thuật lấy m.áu tụ ra ngoài là cần thiết để giảm áp lực trong hộp sọ và bớt chèn ép não. Ngoài ra, các biện pháp hồi sức cấp cứu, chăm sóc tích cực, phòng chống biến chứng cũng rất quan trọng.
Điều trị lâu dài và phục hồi chức năng còn phụ thuộc vào vị trí, số lượng, kích thước khối m.áu tụ. Có thể bao gồm: Uống thuốc hàng ngày để kiểm soát huyết áp, phục hồi chức năng vận động, phát âm và cách thích nghi với cuộc sống hàng ngày cho người bệnh. Nếu bệnh nặng, bệnh nhân có thể t.ử v.ong hoặc để lại những di chứng và cần người hỗ trợ chăm sóc.
Vì vậy, khi có biểu hiện nghi ngờ bệnh nhân đột quỵ do xuất huyết não cần phải được cấp cứu kịp thời, không tự điều trị, không điều trị theo mách bảo tránh nguy hại đến sức khỏe.
Giữ một thai khỏe mạnh cho sản phụ mang song thai phát triển bất cân xứng
Mang song thai ở tuần 17, chị N.T.T (33 t.uổi) được phát hiện thai phát triển bất cân xứng. Các bác sĩ quyết định phải loại bỏ một thai và tiếp tục nuôi dưỡng thai còn lại chào đời khỏe mạnh ở tuần 37.
Sản phụ N.T.T mang song thai chung một bánh nhau, hai buồng ối. Từng sảy thai nên sản phụ được các bác sĩ theo dõi thai kỳ rất kỹ lưỡng. Ở tuần thai thứ 16, siêu âm ghi nhận các chỉ số hai bào thai quá chênh lệch. Trong đó, một thai nhỏ hơn 67% so với thai còn lại, cảnh báo nguy cơ cao thai lưu.
Bác sĩ chuyên khoa I Trần Lâm Khoa, Trung tâm Sản Phụ khoa, Bệnh viện đa khoa Tâm Anh TP Hồ Chí Minh cho biết, sản phụ mang song thai sẽ có chung bánh nhau nuôi bào thai dẫn đến hội chứng truyền m.áu song thai, thiếu m.áu, đa hồng cầu, bơm m.áu đảo ngược trong song thai hoặc thai chậm tăng trưởng chọn lọc.
Trong trường hợp sản phụ này, được xác định thai giới tăng trưởng chọn lọc (selective fetal growth restriction-sFGR). Đây là tình trạng một bào thai có thể nhận được ít phần nhau thai hơn so với thai còn lại, lưu lượng m.áu và dinh dưỡng đến nuôi thai ít hơn khiến một thai chậm phát triển trong tử cung, khiến thai phát triển bất cân xứng. Tình trạng này thường gặp ở nhóm song thai một bánh nhau, tỷ lệ mắc được báo cáo khoảng 12-25%.
Việc song thai có mức chênh lệch bất thường ở khoảng 20-25%, cao nhất khoảng 40% cũng gặp ở nhiều sản phụ, tuy nhiên, việc chênh lệch giữa hai thai tới 67% như sản phụ rất ít gặp.
Bình thường, song thai chênh lệch cân nặng 25% trở lên nguy cơ cao dẫn đến thai lưu trong tử cung, tổn thương não, suy hô hấp, xuất huyết nội sọ, co giật, nhiễm khuẩn, viêm ruột hoại tử, chậm phát triển tâm thần vận động, sinh non tháng.
Với sản phụ này, bào thai bé hơn có nguy cơ t.ử v.ong trong buồng tử cung, sẽ khiến cho thai còn lại cũng gặp nhiều tổn thương như thiếu m.áu nặng, tổn thương não, gây ra nguy cơ hỏng cả hai bào thai.
Để cứu một bào thai, bác sĩ chỉ định phẫu thuật nội soi kẹp tắc rốn của thai bé hơn. Sau can thiệp, bào thai còn lại phát triển bình thường, cân nặng tăng đều theo tuần.
Những tuần sau đó, sản phụ gặp nhiều vấn đề về sức khỏe. Ở tuần 24, sản phụ mắc tiểu đường thai kỳ, thai giữ được không tăng cân. Ê-kíp xây dựng phác đồ điều trị đái tháo đường cho thai phụ bằng insulin.
Các bác sĩ duy trì cho bào thai phát triển trong bụng mẹ đến tuần 37,5 thì quyết định mổ. B.é t.rai nặng 2,6kg chào đời khỏe mạnh trong niềm vui vỡ òa của gia đình sản phụ. Bào thai lưu trong tử cung người mẹ cũng được lấy ra, bác sĩ lau sạch buồng tử cung trước khi đóng vết mổ.
Bác sĩ Lâm Khoa khuyến cáo, sản phụ mang song thai nói riêng hay đa thai nói chung đều có nhiều nguy cơ, cần theo dõi chặt chẽ. Thai phụ dễ có tình trạng bánh nhau cũng phân chia không đồng đều, thông nối mạch m.áu không cân bằng giữa hai thai dẫn đến các biến chứng trong song thai một nhau như hội chứng truyền m.áu trong song thai, thai giới hạn tăng trưởng trong tử cung, thai thiếu máu-đa hồng cầu, thai không tim.
“Trong trường hợp bất thường việc giảm thai có chọn lọc được cân nhắc nhằm giảm tổn hại về sức khỏe, tinh thần cho mẹ và bé”, bác sĩ Lâm nói.